TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV
TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV
Nhóm chuyên gia
95 bài viết

LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2025. Chúng tôi xin đăng tải nguyên văn báo cáo để quý độc giả tiện theo dõi.

--------

Bối cảnh kinh tế thế giới 6 tháng đầu năm 2025

Kinh tế thế giới (KTTG) 6 tháng đầu năm 2025 tăng trưởng chậm, với nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, đặc biệt là chính sách thuế của Tổng thống Mỹ D.Trump tác động tiêu cực đến thương mại - đầu tư toàn cầu; trong khi các căng thẳng địa chính trị tại Ukraina, Trung Đông… vẫn dai dẳng, thậm chí bùng phát trong tháng 6; các thảm họa thiên nhiên, biến đổi khí hậu vẫn khó lường, làm tăng nguy cơ an ninh lương thực, an ninh năng lượng. Vì vậy, trong các báo cáo cập nhật nhất, hầu hết các tổ chức quốc tế (như WB, IMF, OECD...) đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu khoảng 0,3-0,4 điểm % so với dự báo trước đó, ở mức khoảng 2,3-2,8%, hoặc có thể về mức 2,1-2,5% nếu việc đàm phán thuế đối ứng của Mỹ và các nước không đạt kết quả khả quan. WTO (6/2025) cũng dự báo thương mại toàn cầu giảm mạnh, về mức 0,1% do tình trạng bất ổn trong chính sách thuế quan của Mỹ; trong khi WB (6/2025) dự báo khối lượng thương mại toàn cầu chỉ tăng 1,8% năm 2025 (từ mức 3,4% năm 2024). Điểm sáng là lạm phát tiếp tục giảm về gần mức mục tiêu của nhiều nước (dù có chậm dần); cùng với sự chậm lại của đà phục hồi kinh tế khiến ngân hàng trung ương (NHTW) nhiều nước tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ, hạ lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng.

Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 đạt nhiều kết quả khả quan

Một là, Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện thể chế, sắp xếp lại giang sơn, vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, quyết liệt triển khai "bộ tứ trụ cột", chủ động ứng phó với chính sách thuế quan của Mỹ, quyết tâm đạt mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên và giữ vững ổn định vĩ mô

Với quyết tâm chính trị cao, tinh thần khẩn trương, quyết liệt, Đảng và Nhà nước đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiều quyết sách mang tính lịch sử về đột phá thể chế, tinh gọn tổ chức - bộ máy, hoàn thiện việc sáp nhập tỉnh, thành phố và vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp từ ngày 1/7/2025, tạo tiền đề đưa đất nước bước vào "kỷ nguyên mới". Trong 6 tháng đầu năm và đặc biệt kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV đã xem xét và thông qua số lượng Luật, Nghị quyết nhiều nhất từ trước đến nay, nổi bật là Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại DN, Luật KHCN và đổi mới sáng tạo, Luật Công nghiệp công nghệ số, Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi), Luật các TCTD (sửa đổi); Nghị quyết về trung tâm tài chính quốc tế tại TP.HCM và Đà Nẵng; Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013; các Nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù tạo đột phá trong triển khai "bộ tứ trụ cột", phát triển nhà ở xã hội, trung tâm tài chính quốc tế, khu thương mại tự do…v.v. Chính phủ ban hành nhiều Nghị định, Nghị quyết, văn bản chỉ đạo nhằm quyết tâm đạt được mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên, ổn định vĩ mô và đảm bỏ các cân đối lớn của nền kinh tế; thực hiện đột phá thể chế, tinh gọn tổ chức – bộ máy, sáp nhập tỉnh, thành phố; đẩy mạnh cắt giảm thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền; phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại…v.v.

Chính sách tài khoá (CSTK) tiếp tục được điều hành theo hướng mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm. Theo đó, Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, phấn đấu tỷ lệ giải ngân đạt 100% kế hoạch; tăng cường mở rộng cơ sở thuế, thu hồi nợ đọng thuế, tăng nguồn lực cho đầu tư phát triển; phấn đấu nâng hạng thị trường chứng khoán năm 2025 (Nghị quyết 154/NQ-CP ngày 31/5/2025). Các chính sách về miễn, giảm, gia hạn thuế, phí tiếp tục được triển khai (gần tương tự như hồi dịch Covid-19); chính thức miễn và hỗ trợ học phí…v.v.

Chính sách tiền tệ (CSTT) được điều hành theo hướng chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với CSTK; phấn đấu tăng trưởng tín dụng cả năm đạt khoảng 16%; tiến tới năm 2026 điều hành tăng trưởng tín dụng mang tính thị trường hơn và bỏ việc phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD (Công điện số 104/CĐ-TTg ngày 6/7/2025); các TCTD đẩy mạnh các chương trình tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên như nông, lâm, thuỷ sản; phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho người dưới 35 tuổi, hỗ trợ liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao vùng ĐBSCL; phát triển hạ tầng và công nghệ số, kích cầu tiêu dùng; tăng cường xử lý nợ xấu, hạn chế nợ xấu phát sinh và đổi mới cách thức quản lý thị trường vàng…v.v.

Về ứng phó với chính sách thuế quan của Mỹ, lãnh đạo Đảng và Chính phủ đã chủ động, tăng cường trao đổi, tiếp xúc ở nhiều cấp, nhiều kênh...

Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2025- Ảnh 1.

Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 đạt nhiều kết quả khả quan (ảnh minh họa)

Hai là, GDP 6 tháng đầu năm 2025 tăng trưởng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 15 năm; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, với GDP tăng 7,52% so với cùng kỳ năm trước với sự phục hồi của các động lực cả phía cung và cầu.

Về phía cung, công nghiệp và xây dựng tăng 8,33%, cao nhất trong 3 khu vực và là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 7 năm, đóng góp 3,08 điểm % (40,9% trong mức tăng trưởng chung); tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ với mức tăng trưởng 8,14% và đóng góp cao nhất (3,54 điểm % hay 47%) vào mức tăng trưởng chung. Đồng thời, lĩnh vực nông - lâm - thủy sản tiếp tục là bệ đỡ vững chắc của nền kinh tế, duy trì mức tăng trưởng khá 3,84%, cao nhất trong vòng 7 năm, đóng góp 0,43 điểm % (tương đương 5,76%) vào mức tăng trưởng chung.

Về phía cầu, tiêu dùng cuối cùng và tích lũy tài sản tăng trưởng cao nhất so cùng kỳ trong vòng 8 năm. Tiêu dùng cuối cùng tăng 7,95%, đóng góp 6,33 điểm % (84,2%) và tích lũy tài sản đóng góp 3,02 điểm % (40,18%) vào mức tăng trưởng GDP, nhờ tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 9,8%, tiệm cận mức trước dịch (cùng kỳ 6T/2018-2019, tăng bình quân 10,2%), đặc biệt đầu tư công tăng 19,8%, cao gấp 1,12 lần mức trước dịch Covid-19; đầu tư tư nhân tăng 7,5%, gấp 1,2 lần bình quân 6T giai đoạn 2020-2024 (6,1%), nhưng còn thấp hơn so với trước dịch Covid-19.

Xuất khẩu ròng hàng hóa trong 6T/2025 đạt 7,63 tỷ USD, cao gấp 2,5 lần mức trước dịch. Trong đó, xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện (chiếm 21,7% tổng kim ngạch xuất khẩu) tăng 40%, cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung và là mức tăng trưởng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 8 năm nhờ hưởng lợi từ sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số, công nghệ số, công nghiệp chế biến - chế tạo trong nước (chỉ số sản xuất (IIP) của công nghiệp chế biến - chế tạo tăng 11,1%, cao hơn tốc độ tăng trưởng IIP chung 9,2% và là mức cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 4 năm). Một lý do khác là nhiều doanh nghiệp tranh thủ cơ hội trong 90 ngày tạm đình chỉ mức thuế đối ứng cao.

Thu hút và giải ngân FDI tăng tích cực, với vốn FDI đăng ký đạt 21,52 tỷ USD, tăng mạnh 32,6% so với cùng kỳ; vốn FDI giải ngân ước đạt 11,72 tỷ USD (tăng 8,1%), là mức giải ngân cao nhất trong 5 năm.

Tiêu dùng tiếp tục phục hồi, du lịch tăng mạnh, với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 6T/2025 tăng 9,3%, nhờ lượng khách du lịch tăng mạnh và tiêu dùng cá nhân phục hồi. Trong 6 tháng đầu năm, Việt Nam đã đón 10,66 triệu lượt khách quốc tế, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm 2024, 77,5 triệu lượt khách nội địa, tăng 16,5%), giúp doanh thu du lịch lữ hành tăng 23,2% và dịch vụ lưu trú - ăn uống tăng 14,7% so cùng kỳ.

Ba là, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 6T/2025 tăng 3,27%, lạm phát cơ bản tăng 3,16% so với cùng kỳ năm 2024, thấp hơn mức tăng của lạm phát tổng thể (3,27%), chủ yếu là cung tiền tăng cao (7,25% so đầu năm) nhưng vòng quay tiền còn chậm (chỉ ở mức 0,62 lần, thấp hơn mức 0,65 lần của cùng kỳ năm 2024).

Bốn là, lãi suất cho vay giảm nhẹ, tăng trưởng tín dụng khởi sắc: lãi suất cho vay có xu hướng giảm nhẹ khi các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục đẩy mạnh các gói tín dụng với lãi suất ưu đãi nhằm kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy tăng trưởng. Theo NHNN, lãi suất cho vay bình quân của các khoản cho vay mới ở mức là 6,38%/năm, giảm khoảng 0,6% so với cuối năm 2024. Tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 6/2025 đạt 8,3% so với cuối năm 2024, cao hơn so với mức 6,52% cuối tháng 5/2025 và cao hơn mức tăng huy động vốn (+6,57%) và là mức cao nhất so với cùng kỳ 5 năm khi NHNN tiếp tục nới lỏng, linh hoạt chính sách tiền tệ, giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 16% ngay từ đầu năm để các TCTD có thể chủ động hơn và cung ứng các gói tín dụng ưu đãi.

Năm là, thu ngân sách Nhà nước (NSNN) tăng mạnh nhờ đà tăng tích cực của sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu: thu NSNN trong 6T/2025 ước đạt 67,7% dự toán năm, tăng 28,3% so với cùng kỳ năm 2024 nhờ sự phục hồi mạnh của hoạt động sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất - nhập khẩu. Chi NSNN ước đạt 43,2% dự toán năm, tăng 38,5% so với cùng kỳ năm 2024 nhờ giải ngân đầu tư công tăng tích cực (tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2024).

Bốn rủi ro, thách thức chính trong nửa cuối năm 2025

Một là, rủi ro, thách thức từ bên ngoài gia tăng, bao gồm: (i) rủi ro địa chính trị, chiến tranh thương mại - công nghệ gia tăng, khiến giá cả hàng hóa chịu áp lực tăng, lạm phát, lãi suất giảm chậm hơn so với dự kiến, từ đó tạo áp lực đối với lạm phát, lãi suất và tỷ giá của Việt Nam; (ii) một số nước giảm đà tăng trưởng (nhất là Mỹ, Trung Quốc, EU…), khiến tăng trưởng toàn cầu chậm lại rõ rệt như nêu trên; (iii) lạm phát, lãi suất dù giảm nhưng còn ở mức cao, neo lâu, khiến đà phục hồi khó khăn hơn, rủi ro nợ công và tư còn cao; (iv) nguy cơ rủi ro an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng và thiên tai, xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu cực đoan vẫn thường trực.

Hai là, hoạt động doanh nghiệp còn đối mặt với nhiều khó khăn dù đã có dấu hiệu khởi sắc hơn: trong 6T/2025, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn vẫn tăng 13,3% và số doanh nghiệp hoàn tất giải thể tăng 23,3% so với cùng kỳ do rủi ro chiến tranh thương mại - công nghệ, các vướng mắc về pháp lý dự án còn chậm giải quyết, chi phí đầu vào (giá điện, logistics…) ở mức cao, đơn hàng thiếu bền vững, biên lợi nhuận giảm…, nhưng đã có dấu hiệu khởi sắc hơn khi lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường tăng mạnh, nhất là từ khi Nghị quyết 68/NQ-TW có hiệu lực từ đầu tháng 5 năm 2025.

Ba là, tỷ giá, nợ xấu tăng dù trong tầm kiểm soát: về tỷ giá, tính đến hết ngày 30/6, tỷ giá liên ngân hàng tăng 2,5%, tỷ giá trung tâm tăng 2,94% so với đầu năm, dù chỉ số đồng USD (DXY) giảm 10,7% trên thị trường quốc tế và VND mất giá với hầu hết các ngoại tệ của các nước trong khu vực Châu Á. Về nợ xấu, đến hết tháng 2/2025, tỷ lệ nợ xấu nội bảng (không bao gồm 5 NHTM thuộc diện kiểm soát đặc biệt, trong đó có 4/5 NHTM đã được chuyển giao) ở mức 1,88%, giảm so với mức 1,93% tại thời điểm cuối năm 2024. Tuy nhiên, nợ xấu của 27 ngân hàng niêm yết cuối quý 1/2025 ở mức 2,2%, tăng so với mức 1,9% cuối năm 2024, trong khi đó tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm từ mức 91% cuối năm 2024 xuống còn 80% cuối quý 1/2025 cho thấy khả năng bù đắp rủi ro của các TCTD đang suy giảm.

Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2025- Ảnh 2.

Hoạt động doanh nghiệp còn đối mặt với nhiều khó khăn dù đã có dấu hiệu khởi sắc hơn (ảnh minh họa)

Bốn là, xuất nhập khẩu (XNK) tăng chậm lại; đầu tư tư nhân và tiêu dùng vẫn thấp hơn mức trước dịch Covid-19: XNK trong 6T/2025 tăng 16,1% so với cùng kỳ, nhưng thấp hơn mức tăng cùng kỳ 2024 (16,8%) và riêng trong tháng 6 giảm 3,2% so với tháng trước, thặng dư thương mại hàng hóa chỉ bằng 62,8% với cùng kỳ 2024, gây áp lực nhất định lên cán cân thương mại tổng thể, dự trữ ngoại hối và tỷ giá. Chỉ số PMI sản xuất tháng 6/2025 đạt 48,9 điểm, thấp hơn mức 49,8 điểm của tháng 5 và ở mức thu hẹp tháng thứ ba liên tiếp do số lượng đơn đặt hàng mới thiếu bền vững như nêu trên. Tăng trưởng vốn đầu tư tư nhân đạt 7,5% trong 6T/2025, cao hơn cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức trước dịch (trong 6T/2018-2019, tăng khoảng 16%) và thấp nhất trong 3 khu vực (khu vực Nhà nước và khu vực FDI lần lượt tăng 19,8% và 10,6%). Về sức cầu tiêu dùng, nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 7,2% so với cùng kỳ, bằng khoảng 84% mức tăng trung bình trước dịch 2018-2019 (9%), doanh thu du lịch lữ hành dù tăng cao hơn so với mức trước dịch song vẫn thấp hơn cùng kỳ năm 2024 (37,1%); mức tăng doanh thu lưu trú - ăn uống (10,5%) khá thấp so với mức tăng về lượng khách du lịch quốc tế (tăng 20,7%), cho thấy xu hướng tiêu dùng tiết kiệm hơn của du khách...v.v.

Dự báo kinh tế Việt Nam cả năm 2025

Về triển vọng, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều rủi ro, bất ổn (đặc biệt là "cú sốc" thuế quan của Mỹ), lạm phát và lãi suất có thể giảm chậm hơn dự kiến, tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại, theo Nhóm Nghiên cứu, kinh tế của Việt Nam còn đối mặt với nhiều thách thức trong nửa cuối năm 2025 và kể cả năm 2026. Tuy nhiên, kỳ vọng việc đàm phán thuế quan (dự kiến mức thuế 20% từ ngày 1/8, thấp hơn mức dự kiến 46% và có thể thấp hơn so với nhiều đối thủ cạnh tranh xuất khẩu, thu hút FDI), cùng với nhiều giải pháp khác, Việt Nam vẫn giữ được lợi thế thương mại và thu hút FDI so với các quốc gia khác.

- Tăng trưởng GDP: với kết quả tăng trưởng khả quan của 6 tháng đầu năm và kỳ vọng kết quả đàm phán thuế quan khả quan như nêu trên cùng với nỗ lực cải cách nội địa; các động lực tăng trưởng (cả truyền thống và mới) được khai thác, làm mới và phát huy hiệu quả cao hơn; kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, niềm tin của doanh nghiệp và người dân được củng cố, dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể đạt 7,5-7,7% cả năm 2025 (kịch bản cơ sở), tăng trưởng GDP hai quý cuối năm cần đạt khoảng 8-8,2%, hoặc có thể cao hơn, khoảng 7,8-8,1% (kịch bản tích cực).

Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2025- Ảnh 3.

- Về lạm phát: áp lực lạm phát có thể gia tăng mạnh hơn trong 6 tháng cuối năm do cả yếu tố chi phí đẩy (giá hàng hóa nhập khẩu cao hơn do thuế quan của Mỹ chính thức áp đặt, chi phí sản xuất - kinh doanh còn tăng, chủ yếu là tiền thue đất, lương nhân công tăng…) và yếu tố cầu kéo (tăng trưởng tín dụng ước đạt 15-16%, vòng quay tiền ở mức 0,7-0,8 lần). Tuy nhiên, CPI bình quân cả năm 2025 dự báo tăng 4-4,5%, cao hơn năm 2024 (3,63%) song vẫn dưới mức mục tiêu cho phép của Quốc hội (4,5-5%) và trong tầm kiểm soát nhờ tác động cộng hưởng của các yếu tố hỗ trợ (như đà hạ nhiệt của lạm phát toàn cầu dù giảm chậm hơn dự kiến), nguồn cung hàng hóa - dịch vụ thiết yếu trong nước được bảo đảm; tỷ giá tăng trong tầm kiểm soát, lãi suất cơ bản ổn định và phối hợp chính sách ngày càng tốt hơn.

Năm kiến nghị

Để đạt được các mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên hoặc ít nhất như kịch bản cơ sở (7,5-7,7%) trong cả năm 2025 như nêu trên, Nhóm Nghiên cứu có 5 kiến nghị như sau:

Một là, thực hiện hiệu quả chủ trương đột phá thể chế, vận hành hiệu quả bộ máy, địa phương sau sáp nhập, tinh gọn; đẩy mạnh chống lãng phí, cải thiện thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh: (i) Khẩn trương ban hành các quy định, hướng dẫn các Luật, Nghị quyết mới được QH thông qua tại các kỳ họp từ đầu năm 2025 đến nay, đồng thời đẩy nhanh hoàn thiện thể chế cho các động lực tăng trưởng mới như cơ chế sandbox cho kinh tế tuần hoàn, đẩy nhanh thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh; Nghị định thí điểm thị trường tài sản số; thành lập Quỹ hỗ trợ chuyển đổi xanh, Quỹ phát triển nhà ở; Quỹ đầu tư mạo hiểm…); (ii) Bố trí kinh phí và nguồn lực để triển khai quyết liệt, hiệu quả "bộ tứ trụ cột" theo 4 nghị quyết của Bộ Chính trị, có đôn đốc, sơ kết và tháo gỡ kịp thời; (iii) Đẩy mạnh triển khai Đề án 06 và chia sẻ dữ liệu, quyết liệt cắt giảm, đơn giản hóa, số hóa thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ một cách thực chất, đồng bộ; (iv) Đẩy mạnh chống lãng phí, nhất là 2.887 dự án tồn đọng, vướng mắc với số vốn đầu tư khoảng 235 tỷ USD như Chính phủ đã thống kê, báo cáo; khẩn trương có phương án, cơ chế, chính sách về sử dụng, phát huy hiệu quả các trụ sở cơ quan dôi dư sau tinh gọn, sáp nhập…v.v.

Hai là, chủ động, linh hoạt thích ứng với chính sách thuế quan của Mỹ, coi đây là cơ hội tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tăng tính tự lực, tự chủ, tự cường, trong đó: (i) sớm ban hành Nghị định về kiểm soát thương mại chiến lược, Nghị định về xuất xứ hàng hóa, cùng với đẩy mạnh chống hàng nhái, hàng giả, tăng minh bạch xuất xứ hàng hóa, thiết bị, vật liệu...; (ii) tăng nhập khẩu từ Mỹ, nhất là những sản phẩm mà Mỹ có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu (như chất bán dẫn, khí LNG, máy bay, thiết bị hàng không, dược phẩm, vật tư y tế, nông sản…v.v.); (iii) khai thác tốt hơn các FTA đã có; thúc đẩy các FTA mới với các thị trường nhiều tiềm năng như Trung Đông, châu Phi, Mỹ Latin, Trung Á… nhằm đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng; (iv) tăng cường công tác truyền thông, hỗ trợ để bản thân các doanh nghiệp có thể tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, nhất là về xuất xứ hàng hóa, chuỗi cung ứng và yếu tố môi trường, lao động, an toàn thực phẩm…v.v.

Ba là, triển khai có hiệu quả các chính sách kích cầu tiêu dùng: (i) thanh toán đầy đủ, kịp thời, thủ tục nhanh gọn các khoản phụ cấp, chế độ đặc thù cho cán bộ, công - viên chức, người lao động nghỉ hưu trước tuổi theo chủ trương tinh gọn bộ máy của Đảng và Nhà nước; (ii) kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong quá trình thực hiện công cuộc phòng chống hàng nhái, hàng giả; nghiên cứu sửa đổi Nghị định 70/2025/NĐ-CP cho phù hợp; (iii) sớm ban hành Luật thuế TNCN sửa đổi, trong đó cần nâng mức giảm trừ gia cảnh phù hợp; (iv) xây dựng và triển khai "Chương trình kích cầu du lịch" nội địa và quốc tế; sớm cho phép thử nghiệm kinh tế đêm ở một số địa điểm phù hợp và hoàn thiện cơ chế, chính sách, cách thức quản lý kinh tế đêm...; (v) Khuyến khích các TCTD triển khai các gói tín dụng tiêu dùng lãi suất ưu đãi cho công nhân, nông dân, sinh viên, người lao động trong cả khu vực chính thức và phi chính thức…v.v.

Bốn là, nâng cao hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách, nhất là chính sách tiền tệ, tài khóa và chính sách vĩ mô khác: (i) có lộ trình phù hợp khi tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý; luôn đảm bảo cung ứng đầy đủ hàng hóa, dịch vụ thiết yếu; bình ổn tỷ giá, thị trường vàng, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần tăng hiệu quả của các chương trình kích cầu tiêu dùng; (ii) xử lý dứt điểm các TCTD yếu kém (nhất là Ngân hàng SCB), tăng vốn cho các TCTD Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng cao; (iii) Phát triển cân bằng thị trường tài chính (nhất là thị trường trái phiếu, cổ phiếu, quỹ đầu tư), quyết tâm nâng hạng thị trường chứng khoán trong năm 2025; sớm ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP về thị trường vàng; triển khai giải pháp cụ thể phát triển thị trường bất động sản lành mạnh, hiệu quả; chú trọng kiểm soát rủi ro hệ thống tài chính – bất động sản, rủi ro an ninh mạng, thông tin – dữ liệu.

Cuối cùng, quan tâm nâng cao chất lượng tăng trưởng, trong đó có chất lượng đầu tư công (nhất là các công trình trọng điểm) và cơ cấu chi tiêu công (chi nhiều hơn cho giáo dục, y tế và KHCN, hạ tầng số...); sớm thành lập Ủy ban năng suất quốc gia, triển khai các chiến dịch về tăng năng suất, chú trọng nâng cao trình độ, chất lượng lao động nhằm ứng dụng và làm chủ KHCN, đóng góp ngày càng cao cho tăng trưởng; có đề án nâng cao sức chống chịu, năng lực tự chủ, tự cường của nền kinh tế. Theo đó, kiến nghị Lãnh đạo Đảng và Nhà nước sớm ban hành Nghị quyết đột phá, đổi mới về giáo dục và y tế, kinh tế Nhà nước, - các yếu tố then chốt đảm bảo phát triển nhanh, hài hòa và bền vững./.